Thiết kế và chế tạo HMS Vanguard (1909)

Nguồn gốc

Dự thảo ngân sách hải quân 1907-1908 được Bộ trưởng Bộ Hải quân Anh đệ trình lên Quốc hội Anh dự trù ngân quỹ để chế tạo hai thiết giáp hạm kiểu dreadnought, có dự trù tăng lên ba chiếc tùy theo kết quả thương lượng với các cường quốc hải quân khác tại Hội nghị Hague. Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, lớp St Vincent vốn nguyên chỉ bao gồm hai chiếc HMS Collingwood (1908)HMS St Vincent (1908), sẽ được mở rộng và bao gồm Vanguard.[2]

HMS Vanguard được đặt hàng vào ngày 6 tháng 2 năm 1908 cho xưởng tàu của hãng VickersBarrow. Nó được đặt lườn vào ngày 2 tháng 4 năm 1908 và hạ thủy vào ngày 22 tháng 2 năm 1909. Nó bắt đầu chạy thử vào tháng 11 năm 1909, hoàn tất vào tháng 2 năm 1910, và đến ngày 1 tháng 3 năm 1910 nó được nhập biên chế tại Devonport trong Hải đội thứ nhất của Hạm đội Nhà Anh Quốc.[3]

Vũ khí

Dàn vũ khí chính bao gồm mười khẩu pháo BL 12 in (300 mm)/50 caliber Mark XI bố trí trên năm tháp pháo nòng đôi; bao gồm tháp pháo "A" bố trí ở sàn trước, tháp pháo "X" giữa ống khói sau và cấu trúc thượng tầng phía sau và tháp pháo "Y" ở sàn sau, tất cả được bố trí trên trục giữa tàu; cùng hai tháp pháo cánh "P" và "Q" hai bên mạn tàu ngay phía sau ống khói trước; mọi tháp pháo ngoại trừ tháp pháo "A" được đặt trên sàn chính. Tháp pháo "A" và "Y" có góc bắn khoảng 270° ra phía mũi và đuôi tàu tương ứng; tháp pháo "X" có góc bắn khoảng 100° qua hai bên mạn; còn tháp pháo cánh "P" và "Q" trên lý thuyết có góc bắn 180°, nhưng trong thực tế mọi góc bắn nhỏ hơn 30° sẽ gây ra chớp lửa đầu nòng mạnh đến mức gây hư hại cho chính cấu trúc thượng tầng của con tàu.[4] Pháo Mark XI bắn ra đạn pháo nặng 850 lb (390 kg), và có thể bắn hai phát mỗi phút, nhưng trong thực hành thường chỉ bắn một phát mỗi phút để trinh sát điểm đạn rơi.[5] Cho dù mang đến mười khẩu pháo, sự giới hạn bắn chéo qua mạn của các tháp pháo "P" và "Q" khiến một loạt bắn toàn bộ qua mạn chỉ có tám khẩu pháo.

Vào lúc hoàn tất, dàn pháo hạng hai của con tàu bao gồm hai mươi khẩu pháo QF 4 in (100 mm) 50-calibre Mk III trên các bệ nòng đơn, bố trí trên cấu trúc thượng tầng và trên nóc các tháp pháo "A" và "Y". Cho dù có bệ che chắn, khẩu pháo trên nóc tháp pháo "A" bị ảnh hưởng nặng bởi chớp lửa đầu nòng của các khẩu 4-inch lân cận trên cấu trúc thượng tầng, nên bị tháo dỡ trước khi Thế Chiến I nổ ra.[4] Các khẩu pháo khác được bố trí trên cấu trúc thượng tầng phía trước, nhưng sau này trong chiến tranh, do nhu cầu ưu tiên vũ trang cho các tàu buôn để chống lại các cuộc tấn công của tàu ngầm tại Đại Tây Dương, pháo cỡ nòng nhỏ được tháo dỡ bớt khỏi nó và các thiết giáp hạm khác. Đến năm 1917, Vanguard chỉ còn giữ lại mười ba khẩu cỡ nòng 4-inch.[4]

Vanguard còn có bốn khẩu pháo chào 3-pounder. Ngoài ra nó còn có ba ống phóng ngư lôi 18-inch, gồm một ống mỗi bên mạn và một ống phía đuôi tàu. Không có ghi nhận về việc nó từng phóng ngư lôi trong tác chiến.

Vỏ giáp

Toàn bộ lườn tàu ở mực nước được bảo vệ ở một chừng mực nào đó. Đai giáp chính dày 10 in (250 mm) kéo dài từ một điểm ngang mép trước của bệ tháp pháo "A" cho đến cuối tháp pháo "Y". Một lớp giáp dày 2 in (51 mm) mở rộng từ đai giáp cho đến hết mũi và đuôi con tàu. Một đai giáp trên dày 8 in (200 mm) mở rộng bên trên toàn bộ chiều dài của đai giáp chính. Vách ngăn sau dày 8 in (200 mm) đặt ngang con tàu giữa các đầu cuối của đai giáp chính. Phía trước có hai vách ngăn: một dày 5 in (130 mm) phía trước bệ tháp pháo "A", và một dày 4 in (100 mm) ở khoảng giữa vách trước và đuôi tàu. Vỏ giáp của sàn tàu thay đổi theo một cấu trúc phức tạp, dựa trên sự hiện diện hay vắng mặt của các cấu trúc bên trên. Kể từ trên xuống, vỏ giáp của sàn chính dày 0,75–1,5 in (19–38 mm); sàn giữa dày 1,75 in (44 mm); và sàn dưới dày 1,5–3 in (38–76 mm). Các mặt tháp pháo có vỏ giáp dày 11 in (280 mm), trong khi bệ tháp pháo dày 5–9 in (130–230 mm), mỏng hơn ở những nơi được bảo vệ bởi các cấu trúc lân cận. Tháp chỉ huy có vỏ giáp dày 8–11 in (200–280 mm), một lần nữa thay đổi dựa trên mức độ được bảo vệ bởi các cấu trúc lân cận.[6]

Động lực

Vanguard được cung cấp động lực bởi bốn turbine hơi nước Parsons dẫn động trực tiếp đến bốn trục chân vịt. Hơi nước được cung cấp từ 18 nồi nơi Babcock and Wilcox ống lớn với áp suất hoạt động 235 psi (1.620 kPa), cho phép có được công suất tối đa 24.500 shp (18.300 kW) và một tốc độ thiết kế 21 kn (39 km/h). Khi chất đầy nhiên liệu gồm 2.700 tấn Anh (2.700 t) than và 850 tấn Anh (860 t) dầu, nó có tầm xa hoạt động 6.900 nmi (12.800 km) ở tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h).[7] Khi chạy thử máy, nó vượt hơn tốc độ thiết kế, đạt đến 22,1 kn (40,9 km/h) ở công suất 25.800 shp (19.200 kW).[8]